Cô khẳng định: "Cho đến hiện tại chúng tôi chưa kết hôn nên không có chuyện vi phạm chế độ một vợ một chồng và pháp luật hôn nhân gia đình!". Đáng chú ý, Phương Oanh còn thẳng thừng vạch trần "dã tâm" của vợ Shark Bình khi muốn lợi dụng sự nổi tiếng của
theo đó, người có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng như đã nêu có thể bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm nếu thuộc vào một trong hai trường hợp: việc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng làm cho một hoặc cả hai bên phải ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành …
Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. 1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc
Trong phạm vi bài viết về Tội vi phạm chế độ hôn nhân theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015, chúng tôi sẽ phân tích những quy định pháp luật có liên quan về vấn đề này. Theo quy định tại điều 182 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. "1.
Ngoài ra còn có thể bị xử lý hình sự theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau: 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng
- Chịu trách nhiệm hình sự: Căn cứ Điều 182 Bộ luật Hình sự về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. + Phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm: Làm người có gia đình phải ly hôn; đã bị phạt hành chính mà còn vi phạm.
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam
2. Mức phạt hành chính hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng. Nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì người có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng với các hành vi sau:
Vay Tiền Nhanh Ggads. 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như chủ thế của các tội phạm khác, chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tuy không phải là chủ thể đặc biệt nhưng có một đặc điểm khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ người phạm tội phải là người đang có vợ hoặc có chồng hoặc một trong hai người phải là người đang có vợ hoặc đang có chồng. 2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm Khách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chính là chế độ một vợ, một chồng, là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định; bảo vệ chế độ một vợ, một chồng khỏi bị xâm hại cũng chính là giữ vững nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình. 3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm a Hành vi khách quan Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có thể có một trong các hành vi sau Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn kể cả hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân. Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03-01-1987 và đang sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Hôn nhân thực tế là hôn nhân có đủ điều kiện kết hôn về nội dung, chỉ vi phạm điều kiện về hình thức là không có đăng ký kết hôn. Các điều kiện về nội dung là có tổ chức lễ cưới khi về sống chung với nhau; việc chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận; việc chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Tuy nhiên, nếu những người đã chung sống với nhau như vợ chồng hôn nhân thực tế trước ngày 03-01-1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn, còn đối với những người chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 trở đi nếu nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được công nhận là vợ chồng. Việc chấm dứt quan hệ hôn nhân có thể do nhiều nguyên nhân như một trong hai người chết kể cả trường hợp chết về mặt pháp lý do Tòa án quyết định; đã ly hôn do Tòa án công nhân hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng mà bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; đã bị Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu quan hệ hôn nhân đang tồn tại là quan hệ hôn nhân trái pháp luật mà một trong hai người tự ý kết hôn hoặc chung sống với nhau như vợ chồng với người khác thì không phải là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Kết hôn với người khác trái pháp luật là hành vi lừa dối các cơ quan nhà nước để đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán; người phạm tội có thể lừa dối đối với người mà mình kết hôn như nói dối là mình chua có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã có vợ hoặc có chồng nhưng nói dối là đã ly hôn hoặc đã chết làm cho người mà mình định kết hôn tin mà đồng ý kết hôn. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp cả hai người nam và nữ đều biết nhau đã có vợ hoặc đã có chồng nhưng vẫn cố tình lừa dối cơ quan nhà nước để được kết hôn trái pháp luật. Ví dụ Nguyễn Như B đang có vợ hợp pháp và Đào Kim A đang có chồng hợp pháp, nhưng cả B và A bỏ nhà rủ nhau vào Lâm Đồng chung sống rồi dùng giấy tờ giả mạo để lừa dối UBND xã đăng ký kết hôn. Do không thẩm tra nên UBND xã đã đăng ký kết hôn cho Nguyễn Như B và Đào Kim A. Nếu một trong hai người nam hoặc nữ bị lừa dối mà đồng ý kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có hành vi gian dối thì chỉ người có thủ đoạn gian dối mới bị coi là vi phạm chế độ một vợ, một chồng, còn người bị lừa dối không phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Ví dụ Trần Trọng K là công nhân thuộc Công ty bảo dưỡng đường bộ NH. K đã có vợ hợp pháp ở quê và hai con. Do điều kiện công việc nên K thường xuyên phải sống xa nhà; năm 1993, K lừa dối để kết hôn với chị Tần Thị D và sinh được một con trai, đơn vị phát hiện đã xử lý hành chính và đã bị Tòa án nhân dân huyện hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa K với chị D. Năm 1999, K lại lừa dối chị Hoàng Thị O và chính quyền địa phương nơi K đang lao động để UBND xã lại đăng ký kết hôn cho K và O. Trong trường hợp này, chỉ có K là người có hành vi phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, còn chị D và O là người bị K lừa dối, không có hành vi phạm tội. Hành vi chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi của nam và nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau như vợ chồng, có thể có tổ chức lễ cưới hoặc không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; họ sống với nhau như vợ chồng một cách công khai, mọi người xung quanh đều biết và cho rằng họ là vợ chồng. Sẽ không phải là chung sống như vợ chồng nếu như nam và nữ lén lút quan hệ tình dục với nhau theo quan niệm mà xã hội gọi là “ngoại tình” Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng là trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng, đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng là người chưa kết hôn lần nào hoặc đã kết hôn nhưng đã ly hôn hoặc một trong hai người vợ hoặc chồng đã chết hoặc được Tòa án tuyên bố là đã chết. Điều luật quy định người chưa có vợ, chưa có chồng, nhưng bao gồm cả những người đã có vợ hoặc đa có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, đã ly hôn hoặc đã bị Tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật. Đúng ra, nhà làm luật phải quy định người đang chưa có vợ hoặc đang chưa có chồng, thì chuẩn xác hơn và không thể hiểu khác được. Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ không phải là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng nhất là người chưa có chồng bị người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Biết rõ là biết một cách chắc chắn, không có nghi ngờ gì về người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là họ đang có chồng hoặc đang có vợ, có thể do chính người đang có chồng hoặc có vợ nói cho biết hoặc thông qua người khác nói cho biết, hoặc tự tìm hiểu qua nhiều nguồn nên biết. Các hành vi trên chỉ cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng khi người có hành vi đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm. Đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần vi phạm chế độ một vợ, một chồng, đã bị xử lý hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại có hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi trên thì không cấu thành tội phạm này. b Hậu quả Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ra là những thiệt hại như người vợ hoặc người chồng hợp pháp phải bỏ việc, phải tốn kém tiền của để lo giải quyết hàn gắn quan hệ vợ chồng hoặc do quá uất ức với hành vi vi phạm của người chồng hoặc người vợ mà sinh ra bệnh tật, tự sát, con cái bỏ học đi lang thang; hoặc do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà dẫn đến hành vi phạm tội khác như giết người, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy hậu quả của hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thường là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm có thể là của chính người phạm tội nhưng cũng không ít trường hợp gây ra cho người thân của người phạm tội như vợ hoặc chồng hợp pháp của người phạm tội, những cuộc đánh ghen thường xảy ra khi có hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là dấu hiệu cấu thành tội phạm độc lập, nhưng có thể chưa cấu thành tội phạm này. Có nhiều ý kiến khác nhau về hậu quả nghiêm trọng của hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, nhưng qua thực tiễn xét xử, có thể coi là hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ra trong những trường hợp sau - Gây chết người kể cả chết người do hành vi giết người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ 21% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; - Gây dư luận xấu về các mặt văn hóa, xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự quản lý xã hội, quản lý nhà nước; Điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng mà không quy định gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Như vậy, hậu quả của tội phạm này vừa là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng nếu người phạm tội chưa bị xử lý hành chính thì hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. 4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, thấy trước được hậu quả nghiêm trọng nhất định xảy ra hoặc có thể xảy ra, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc cho hậu quả xảy ra. Đối với tội tội phạm chế độ một vợ, một chồng, người phạm tội thường bỏ mặc cho hậu quả nghiêm trọng xảy ra, miễn là được chung sống như vợ chồng với nhau.
Luật sư trả lời Theo điều 147 Bộ luật hình sự quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, như sau - Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. - Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - TANDTC - Viện KSNDTC ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng” Là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó... Tuy nhiên, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp - Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng, như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, - Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 147 BLHS, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nếu qua 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, mà lạithực hiện chính hành vi đó, hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật. Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 BLHS. Trường hợp vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình khi đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm khoản 2.
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi vi phạm vào chế độ hôn nhân một vợ, một chồng được pháp luật quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình. Việc vi phạm đó được biết đến như chồng hoặc vợ ngoại tình hoặc chung sống với người thứ ba như vợ chồng dù chưa ly hôn. Điều này đã vi phạm đến chế độ một vợ một chồng được quy định tại điều 182 của Bộ luật Hình sự hiện hành. Sau đây, Luật Long Phan xin cung cấp đến Quý bạn đọc qua bài viết dưới đây. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Mục LụcQuy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngDấu hiệu pháp lý tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngMức phạt về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngMột số câu hỏi về vi phạm chế độ vợ chồngNgoại tình có phải là hành vi trái luật không?Xử phạt hành chính về hành vi vi phạmLuật sư tư vấn về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng Quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Vi phạm chế độ một vợ một chồng là việc một người đã có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc người chưa có vợ có chồng mà lại cố tình chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đã có vợ có chồng. Việc chung sống này có thể công khai hoặc không công khai, nhưng phải thể hiện ở các dấu hiệu như Thời gian chung sống với nhau tương đối dài; Có tài sản chung; Đã có con chung với nhau; Được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng Cơ sở pháp lý Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Dấu hiệu pháp lý tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Khách thể của tội phạm Tội phạm này xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ảnh hưởng tới đời sống vợ chồng, hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng tới xã hội nói chung. Mặt khách quan Hành vi của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác Người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; Hậu quả của hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe cho cá nhân cho những người trong và ngoài cuộc như vợ, chồng, nam nữ sống chung, các con; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại Hậu quả thiệt hại phải do nguyên nhân từ các hành vi vi phạm quy định về hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng, không phải do các nguyên nhân khác. Nếu hành vi vi phạm không gây hậu quả, hậu quả không do hành vi vi phạm gây ra thì không cấu thành tội phạm vi phạm các quy định về vi phạm chế độ một vợ một chồng. Mặt chủ quan Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó. Chủ thể Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Người phạm tội có thể là người đang có vợ, có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng. Cơ sở pháp lý Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 Vi phạm chế độ một vợ một chồng thì xử lý như thế nào? Mức phạt về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Cơ sở pháp lý Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các quy định “các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” Một số câu hỏi về vi phạm chế độ vợ chồng Ngoại tình có phải là hành vi trái luật không? Theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì hành vi sống chung với người có vợ hoặc chồng hoặc đã có vợ có chồng nhưng vẫn sống chung với người khác được hiểu nôm na là ngoại tình thì điều này dẫn đến vi phạm chế độ một vợ một chồng nên hành vi này được xem là trái với pháp luật về chế độ một vợ một chồng được quy định cụ thể tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và các văn bản pháp luật khác >>>Xem thêm Chồng ngoại tình với người cùng giới thì bị xử lý ra sao? Cơ sở pháp lý Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 Việc ngoại tình có được xem là trái pháp luật không? Xử phạt hành chính về hành vi vi phạm Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong các hành vi sau Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; Cơ sở pháp lý Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Luật sư tư vấn về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng Tư vấn giúp quý khách hàng giải đáp thắc mắc pháp lý liên quan đến về vấn đề hôn nhân gia đình; Soạn thảo đơn khởi kiện theo đúng yêu cầu của khách hàng; Đại diện cho quý khách hàng nộp hồ sơ tại tòa án cấp có thẩm quyền theo quy định pháp luật; Thay mặt quý khách hàng trao đổi với tòa án, hướng dẫn khách hàng đến làm việc với tòa án; Đại diện cho khách hàng tham gia tranh tụng về những liên quan đến hôn nhân; Những công việc pháp lý có liên quan khác. Vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã được quy định cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Do đó việc ngoại tình cũng là hành vi xâm phạm đến chế độ một vợ, một chồng nên ở hành vi này có thể xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ hành vi và hậu quả từ hành vi ấy. Luật Long Phan xin cung cấp đến những thông tin hữu ích này đến với Quý bạn đọc. Nếu còn sự thắc mắc về những điều liên quan đến hôn nhân xin hãy liên lạc qua LUẬT SƯ TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ qua HOTLINE để được tư vấn kịp thời và hỗ trợ tốt nhất. Xin cảm ơn.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau “1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài 24/7 1900 61981. Khách thể của tội phạmKhách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chính là vi phạm chế độ một vợ, một chồng, là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định; bảo vệ chế độ một vợ, một chồng khỏi bị xâm hại cũng chính là giữ vững nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia Chủ thể của tội phạmChủ thể của tội phạm này là Ngừơi đang có vợ, có chồng hoặc người chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ bên kia có chồng hoặc có vợ mà vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người Mặt khách quan của tội phạm- Người phạm tội có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc có chồng hoặc tuy chưa có vợ, chồng nhưng biết rõ người khác đang có vợ, có chồng mà vẫn có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó. Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác là trường hợp đôi bên trai gái hoặc đã tiến hành tổ chức đám cưới theo tục lệ hoặc đã có giấy đăng ký kết hôn hoặc tuy không đăng ký kết hôn nhưng đã chung sống với nhau, tự coi nhau là vợ chồng trước gia đình và mọi Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác chỉ cấu thành tội khi thoả mãn một trong hai dấu hiệu Đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là hậu quả gây ra cho hạnh phúc gia đình của hôn nhân trước như làm cho gia đình tan vỡ dấn đến li hôn hoặc dẫn đến việc tự sát của người vợ,… hoặc hành vi vi phạm được tiếp tục thực hiện sau khi đã có quyết định xử phạt hành chính về hành vi Mặt chủ quan của tội phạmLỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụĐịa chỉ Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà NộiVăn phòng giao dịch Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà NộiĐiện thoại 04 - Tổng đài tư vấn pháp luật 1900-6218E-mail[email protected], hoặc E-mail [email protected].
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tương ứng với Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng BLHS 1999. Các nội dung liên quan Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện Tội tổ chức tảo hôn Tội loạn luân Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại >>> Xem thêm Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Mục lục 1. Khái niệm 2. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Khách thể Mặt khách quan Mặt chủ quan Chủ thể 3. Về hình phạt 1. Vi phạm chế độ một vợ, một chồng là gì? Vi phạm chế độ một vợ, một chồng được hiểu là trường hợp nam, nữ đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc tuy chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ. Thế nào là chung sống như vợ chồng? Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã định nghĩa 7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. Việc nam nữ tổ chức sống chung với nhau, coi nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn được coi là chung sống như vợ chồng. Việc chung sống này được chứng minh bằng việc họ có đời sống sinh hoạt chung, có tài sản chung, có con chung với nhau và được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng. 2. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Mặt khách quan Mặt khách quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có các dấu hiệu sau đây a Về hành vi. Có một trong các hành vi sau – Có hành vi kết hôn trái phép với người khác trong khi người phạm tội đang có vợ hoặc có chồng một cách hợp pháp hoặc được xác định là hôn nhân thực tế và quan hệ hôn nhân đó còn đang tồn tại hoặc tuy chưa có vợ, có chồng mà kết hôn trái pháp luật với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ hợp pháp. Việc kết hôn trái pháp luật thể hiện qua việc dùng thủ đoạn khai báo gian dối là chưa có vợ hoặc chưa có chồng, hoặc mua chuộc cán bộ có thẩm quyền để tiến hành việc kết hôn nhằm xác lập quan hệ hôn nhân mới giữa nam, nữ trong khi chính họ đang có vợ hoặc chồng. – Có hành vi chung sống như vợ chồng với người khác. Nếu không thuộc trường hợp kết hôn nếu ở trên thì hành vi chung sống như vợ chồng với người khác cũng cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Hành vi trên được thể hiện ở chỗ đôi nam, nữ mà một hoặc cả hai bên đang có vợ hoặc chồng nhưng lại chung sống với nhau không đăng ký kết hôn và coi nhau như vợ chồng một cách công khai như ở chung một nhà, công khai mối quan hệ vợ chồng với hàng xóm, cha mẹ, bạn bè, có tài sản chung, con chung. Tuy nhiên thực tế về việc xác định dấu hiệu này không dễ dàng vì phần đông việc chung sống ở dạng này thường diễn ra một cách lén lút, bí mật, trừ một số trường hợp khá đặc biệt có sự đồng ý của vợ hoặc chồng cho lấy thêm vợ hoặc chồng khác. Lưu ý – Hôn nhân thực tế, được hiểu là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký trước chính quyền, không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình và quan hệ này phải xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực. – Trường hợp người có chồng, có vợ hợp pháp nhưng đang ly thân mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì vẫn bị coi là phạm vào tội này. – Nếu hậu quả nghiêm trọng xảy ra mà cấu thành một tội phạm khác thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ A đi công tác xa đã chung sống với chị B như vợ chồng, nên đã tìm cách giết vợ để được chung sống với B một cách trọn vẹn. Hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm về hai tội vì phạm chế độ một vợ một chồng và tội giết người. b Dấu hiệu khác hành vi nói trên phải làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này. Khách thể Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, một trong những nguyên tắc cơ bản quy định Luật hôn nhân và gia đình. Mặt chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp. Chủ thể Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, phải đủ tuổi kết hôn nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên và phải là đang có vợ hoặc có chồng hợp pháp, hoặc là người chưa có vợ, chưa có chồng nhưng biết rõ người khác đang có chồng có vợ, mà vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ, chồng với người đó. Đối với người còn lại mà chưa có vợ hoặc chưa có chồng khi biết rõ bên kia đã có vợ hoặc có chồng mà vẫn đồng ý kết hôn với họ thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này với vai trò đồng phạm. Thực tế có trường hợp đồng tính luyến ái chung sống với nhau như vợ chồng theo chúng tôi thì không thể coi là hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng. 3. Về hình phạt của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành hai khung, cụ thể như sau a Khung một khoản 1 Có mức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. b Khung hai khoản 2 Có mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
tội vi phạm chế độ một vợ một chồng