(TAMHOAN.COM) Hoắc Việt ngồi một mình ở trong xe, ánh nắng chiều hoa lệ chiếu thẳng vào, trên mặt hắn không có nửa phần biểu cảm.\
1. Sự tồn tại của án lệ trong lịch sử pháp luật Việt Nam. – Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, án lệ đã được ghi nhận, điển hình là quy định tại Điều 396* Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) từ thế kỷ 15. Án lệ đã được áp dụng bởi
1. Quy trình xây dựng án lệ ở Hoa Kỳ. Pháp luật Hoa Kỳ được xây dựng dựa trên nền tảng pháp luật Anh, vì vậy, án lệ Hoa Kỳ cũng mang những đặc trưng cơ bản của án lệ Anh, như việc thừa nhận án lệ là một nguồn luật chính thống bên cạnh luật thành văn. Tuy nhiên
triệu lộ tư Địch Lệ Nhiệt Ba Triệu Lệ Dĩnh Dương Mịch triệu lộ tư lâm duẫn bạch lộc sao hoa ngữ. Địch Lệ Nhiệt Ba. Địch Lệ Nhiệt Ba là một nữ diễn viên Trung Quốc, người dân tộc Duy Ngô Nhĩ. Năm 2013, Địch Lệ Nhiệt Ba ra mắt với vai chính trong bộ phim A Na Nhĩ Hãn.
Bình minh, hoàng hôn, độ dài ngày và thời gian mặt trời cho Thành phố New York. Bình minh: 07:08. Hoàng hôn: 18:15. Độ dài ngày: 11giờ 6phút. Mặt trời lên thiên đỉnh: 12:42. Thời gian hiện tại ở Thành phố New York hiện đang nhanh hơn 42 phút so với giờ mặt trời.
Wade: TỪ NẠO PHÁ THAI ĐẾN ÁN LỆ HOA KỲ (Kỳ 1) | Nghiên Cứu Khoa học | Hội Đồng Cừu*** MỤC LỤC THAM KHẢO0:00 Thảo luận mở đầu3:23 Hiểu lầm về án
Vào thời Cách mạng Mỹ (1775-1783), tình trạng nô lệ đã được thể chế hóa thành một đẳng cấp chủng tộc gắn liền với tổ tiên của châu Phi. [1] Khi Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn vào năm 1789, một số lượng tương đối nhỏ người da màu tự do nằm trong số các công
1. Tòa phúc thẩm phán quyết theo yếu tố pháp lý, không phải yếu tố khách quan. 2. Tòa án tối cao không bị ràng buộc (về mặt kỹ thuật) bởi các tiền lệ. 3. Các giải pháp khắc phục khác phải được xem xét cho hết. 4. Tòa án không xét xử các “yếu tố chính trị”. 5.
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Tại Việt Nam, sau một khoản thời gian dài nghiên cứu về án lệ, vào năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án lần đầu tiên công nhận khái niệm án lệ trong hệ thống tư pháp Việt Nam. Năm 2015, Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao chính thức hướng dẫn mục tiêu của án lệ, quy trình công bố và lựa chọn, cũng như phương thức hoạt động của án lệ tại Việt Nam. Cho đến nay tổng cộng 26 án lệ đã được công bố, với ý nghĩa áp dụng bắt buộc. Để phân biệt án lệ theo thông luật và án lệ Việt Nam, điều đầu tiên chúng ta cần phải nhớ là gì? Theo người viết, đó là Án lệ tại Việt Nam không phải “án lệ” ! Câu chuyện hiển nhiên phức tạp hơn thế và sẽ được giải thích qua bài viết dưới đây. *** Với sự phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa của khoa học pháp lý ngày nay, hình thức pháp luật hay nguồn luật bao gồm hai thành phần chính yếu hai loại là 1 Văn bản quy phạm pháp luật, tức văn bản pháp quy, hay cũng có thể gọi là luật thành văn statutory law gồm những tập hợp các quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành bởi cơ quan lập pháp. 2 án lệ case law, hay cũng có thể gọi là tiền lệ pháp legal precedent gồm những nguyên tắc pháp lý được hình thành và phổ biến thông qua các quyết định tư pháp của tòa án. Hai loại nguồn luật trên được các quốc gia vận dụng một cách linh hoạt nhằm phát huy tối đa ưu điểm của cả hai. Luật thành văn – Tiền lệ pháp có đặc điểm gì? Nguồn văn bản pháp quy cho chúng ta có những đặc điểm cố hữu sau Thứ nhất, chúng có tính chính danh nhà nước và sự đại diện của chủ quyền nhân dân. Văn bản pháp quy vốn là sản phẩm của các cơ quan dân cử đại diện như Nghị viện, Quốc hội, hoặc các cơ quan khác được cơ quan dân cử ủy quyền như Chính phủ Việt Nam được ủy quyền để ra Nghị định;Thứ hai, tính bao quát. Với mục tiêu là điều chỉnh nhiều mối quan hệ xã hội trong phạm vi rộng lớn cấp độ quốc gia hoặc khu vực, luật thành văn buộc phải có tính trừu tượng và khái quát cao;Thứ ba, tính hệ thống. Cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản sẽ phân chia các văn bản vào từng ngành luật khác nhau, với mối liên hệ nội tại chặt chẽ theo lý thuyết. Mặt khác, công nhận tiền lệ pháp sẽ giúp hệ thống pháp luật quốc gia Linh động hơn trong việc phản ứng trước những tình huống chưa được dự báo hoặc dự báo không thành công trong văn bản quy phạm pháp luật. Sở dĩ như vậy là bởi vì tòa án vốn là cơ quan trực tiếp tiếp cận với các mối quan hệ xã hội trên thực tế, và do đó thấu hiểu thực tiễn và các vấn đề phát sinh trong đời sống hơn;Duy trì tính nhất quán trong các quyết định tư pháp,Quy trình hình thành nguyên tắc pháp lý nhanh chóng, kịp thời hơn,Mang tính cụ thể hơn, rõ ràng hơn cho từng vụ việc, thay vì phổ quát, chung chung như văn bản quy phạm pháp luật, Cơ quan lập pháp sẽ xác lập nguyên tắc pháp lý ở đầu vào, dựa vào ý nguyện của người dân được biểu đạt bởi đại biểu đại diện cho họ. Khi pháp luật thành văn được đưa vào thực tiễn và xảy ra tranh chấp, cơ quan tư pháp tòa án sẽ có thể để lại dấu ấn của mình trên từng mối quan hệ xã hội nhất định thông qua các nguyên tắc pháp lý mà họ sáng tạo ra trong các quyết định tư pháp. Văn bản quy phạm do cơ quan đại diện dân cử như Nghị viên, Quốc hội; hoặc các cơ quan được ủy quyền bởi các cơ quan đại diện dân cử như Chính phủ, Bộ ngành… ban hành, là luật thành văn. Trong ảnh là Quốc hội Việt Nam kỳ họp thứ 5 khóa 14. Ảnh Tin tức Việt Nam. Ví dụ, Tu chính án thứ nhất the First Amendment của Hiến pháp Hoa Kỳ ghi nhận rằng “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình”. Lưu ý rằng đây là một tư tưởng đẹp như tranh, nhưng hoàn toàn vô dụng khi cần được áp dụng Khái niệm Quốc hội ở đây có phải chỉ ám chỉ cơ quan lập pháp liên bang? Liệu có bao gồm các chính quyền tiểu bang ở Hoa Kỳ? Thế nào là một đạo luật ngăn cấm tự do ngôn luận? Những câu hỏi này, may mắn thay, sẽ được trả lời bởi các tòa án thông luật. Đối với câu hỏi Tu chính án áp dụng ở cấp trung ương hay địa phương, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ thông qua hàng loạt bản án từ thập niên 20 đến thập niên 40 trong thế kỷ thứ 20 để khẳng định rằng Tu chính án thứ nhất có thẩm quyền tác động lên hoạt động lập pháp của chính quyền cấp tiểu bang. Riêng về việc xác định xem thế nào là một đạo luật ngăn cấm tự do ngôn luận, Tối cao Pháp viện cũng có hằng hà sa số bản án ghi nhận các nguyên tắc pháp lý mới do tòa này sáng tạo ra nhằm giải thích Tu chính án thứ nhất. Có thể nhắc đến án lệ Near v. Minnesota, mà theo đó Tối cao Pháp viện đưa ra nguyên tắc pháp lý “hạn chế trước” prior restrain, cho rằng một văn bản quy phạm pháp luật có mục đích hạn chế trước bất kỳ loại thông tin nào cũng bị xem là xâm phạm quyền được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất. Tuy nhiên, để mô hình án lệ kiểu mẫu này có thể diễn ra một cách đúng nghĩa, trơn tru như trên, hệ thống pháp luật của một quốc gia cần ba yếu tố cực kỳ quan trọng Tiền lệ phải được tuân thủ stare decisisThẩm quyền giải thích pháp luật của tòa án Sự độc lập chính trị của tòa án. *** “Tiền lệ phải được tuân thủ“ Stare decisis là một từ gốc Latin, được tạm dịch qua ngôn ngữ Anh là to stand by things decided. Ở Việt Nam, các học giả pháp lý gọi là nguyên tắc “tiền lệ phải được tuân thủ”. Trong phạm vi bài viết, chúng ta khó có thể đào sâu khai thác toàn bộ lịch sử hình thành thú vị của nguyên tắc. Song, nói một cách dễ hiểu, nguyên tắc này là thứ keo dính kết nối các quyết định tư pháp lại với nhau. Các thẩm phán có trách nhiệm áp dụng các nguyên tắc pháp lý đã được áp dụng hoặc được sáng tạo trước đó bởi các thẩm phán khác. Điều này khiến cho các quyết định tư pháp, về bản chất thường chỉ có phạm vi tác động trong phạm vi phòng xử án và các bên liên quan của vụ việc, trở thành những nguyên tắc cần phải được cơ quan nhà nước lẫn các đương sự phải tôn trọng nếu không muốn phải chịu các rủi ro pháp lý trước tòa. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nguyên tắc “tiền lệ phải được tuân thủ” không được công nhận, và tự bản thân tòa không có năng lực hình thành án lệ. Chỉ có một số bản án mang tính điển hình được tập hợp và đề xuất từ các tòa cấp dưới. Thông qua quy trình tổng kết thực tiễn xét xử, tuyển chọn của các tòa án cấp trên, hội đồng thẩm phán từ đó được thừa nhận và công bố một số bản án với tư cách là án lệ. Hình ảnh “ngổn ngang” của bộ Federal Supplements. Bộ này là một trong các địa chỉ quan trọng để giới luật sư Hoa Kỳ tìm kiếm án lệ của các tòa Liên bang. Ảnh Flickr. Theo người viết, án lệ Việt Nam thực ra không khác biệt mấy với quy trình soạn thảo nghị quyết thông thường của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, cùng tư liệu là các bản án, các câu hỏi đề xuất của tòa cấp dưới cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử thường niên trước đây. Chỉ duy có khác biệt duy nhất là sản phẩm cuối cùng không phải là một nghị quyết của Hội đồng thẩm phán như xưa. Do đó, có thể nói nguyên tắc căn bản xương sống của khái niệm “án lệ” không tồn tại ở Việt Nam. *** Thẩm quyền và vai trò của tòa án Điểm thứ hai, rất quan trọng, là thẩm quyền và vai trò của tòa án tại Việt Nam. Các bản án của tòa Việt Nam không nhằm tạo ra án lệ, và cũng không thể sáng tạo như ở những quốc gia thuộc hệ thống thông luật. Mục tiêu chính của việc lựa chọn, hình thành và công bố án lệ tại Việt Nam là làm rõ những quy phạm pháp luật còn nhiều cách hiểu khác nhau, hay chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý và quy phạm pháp luật cần áp dụng trong trường hợp cụ thể. Ví dụ, Án lệ số 01/2016/AL về vụ án “Giết người” có nội dung án lệ như sau “Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Hay trong Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình “Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán xét xử sơ thẩm để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn là 10, 5%/năm là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam… để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”. Cần phải khẳng định chắc chắn rằng tòa Việt Nam, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không có thẩm quyền giải thích pháp luật. Đây là thẩm quyền độc nhất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 74 của Hiến pháp Việt Nam 2013, với triết lý chủ đạo cho rằng chỉ có cơ quan dân cử đại diện ban hành pháp luật mới có thẩm quyền giải thích ý định và ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật. Tính sáng tạo của các án lệ tại Việt Nam không tồn tại cũng bởi vì lý do này. Vai trò của các thẩm phán là vận dụng pháp luật, cố gắng để không áp dụng pháp luật sai, trong khi hệ thống án lệ được hình thành thì chỉ cố gắng để áp dụng chúng một cách hợp lý và đồng nhất. Điều này hoàn toàn tương phản với cách mà các thẩm phán thông luật tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật và tranh chấp phát sinh từ các mối quan hệ xã hội. Ví dụ điển hình nhất cho năng lực sáng tạo nguyên tắc pháp lý và ảnh hưởng, thay đổi chính sách công là cách mà hệ thống án lệ Hoa Kỳ tháo bỏ dần chính sách “tách biệt nhưng bình đẳng” segregation but equal khét tiếng vào thập niên 1960. Khởi đầu là án lệ Brown v. Board of Education, 347 483 1954. Đó là một vụ kiện tập thể class action giữa các nhóm da đen thiểu số tại bốn bang Kansas, South Carolina, Virginia và Delaware, khởi kiện lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ yêu cầu các tiểu bang phải từ bỏ các văn bản pháp quy tiểu bang mang bản chất phân biệt đối xử, và đòi các trường học phải thành lập mô hình tuyển sinh không sử dụng sắc tộc và màu da như là một yếu tố lựa chọn học sinh. Báo chí Mỹ đưa tin về phán quyết cuối cùng trong vụ Brown kiện Ủy ban giáo dục. Thurgood Marshall cùng đội luật sư của NAACP bên ngoài Tối cao Pháp viện sau một phiên xử. Tầm ảnh hưởng của Tòa án Hoa Kỳ có thể gây ra những khuynh đảo chính trị vô tiền khoán hậu, nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Nghị viện hay Tổng Cecilia Page/ ; Tối cao Pháp viện tuyên rằng việc tách biệt học sinh trên căn cứ sắc tộc, dù cơ sở vật chất của hai trường là ngang nhau đi chăng nữa, cũng là tước quyền được đối xử bình đẳng của trẻ em da màu, và vi phạm điều khoản bảo vệ bình đẳng trong Tu chính án 14 Equal Protection Clause of the Fourteenth Amendment. Đến năm 1955, Brown v. Board of Education, 349 294 1955 Brown II – tức án nối tiếp Brown đầu tiên, Tối cao Pháp viện bắt đầu đi sâu vào việc gây ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật và chính sách quốc gia thông qua việc hướng dẫn các tòa án cấp dưới bảo đảm rằng phán quyết năm 1954 của mình sẽ được thực hiện. Trong án này, Tối cao Pháp viện gợi mở cho các tòa cấp dưới kiểm soát và có thể tiếp nhận những tranh chấp liên quan đến quy trình tuyển sinh / điều kiện vật chất của các trường học / hệ thống vận chuyển và đưa đón học sinh / nhân viên và chuyên viên trong nhà trường / sự thay đổi và quy hoạch lại các vùng nhập học.. và biến các tiêu chí này trở thành một bộ quy tắc quản lý giáo dục hoàn chỉnh nhằm xác định liệu quy trình tuyển sinh của tất cả trường công lập trên toàn quốc sẽ tuyển sinh và cho phép học sinh nhập học có dựa trên căn cứ sắc tộc hay màu da hay không. Và trong quá trình giải quyết, các tòa địa phương cũng sẽ cân nhắc những đề xuất chính sách từ cơ quan giáo dục có thẩm quyền để xây dựng hệ thống trường học không phân biệt đối xử hoàn thiện. Cả hai bản án không phải là những bản án áp dụng luật pháp để giải quyết tranh chấp xã hội, không phải dựa trên thẩm quyền tư pháp sẵn có, mà là giải thích sáng tạo nguyên tắc pháp lý sẵn có, thay đổi chính sách, và sau đó, là hoạch định chính sách theo phong cách của những cơ quan tư pháp. *** Sự độc lập chính trị của tòa án Điểm cuối cùng cần nhắc đến, mà theo người viết cũng là mấu chốt khiến cho án lệ tại Việt Nam sẽ không bao giờ trở thành án lệ như đúng ý nghĩa của nó tại các quốc gia thông luật, là tính độc lập giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan quyền lực nhà nước khác. Đến đây sẽ có bạn đọc thắc mắc, tòa án Việt Nam về nguyên tắc cũng có trách nhiệm xét xử độc lập đấy thôi. Hiến pháp hay Luật tổ chức Tòa án Nhân dân 2014 đều ghi nhận cả. Tuy nhiên, độc lập này là độc lập tư pháp judicial independence, tập trung bảo đảm rằng tòa có thể xét xử một cách công bằng, không thiên vị cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Tính độc lập mà người viết nói tới đây là độc lập chính trị political independence, tức nói đến thiết chế mô hình nhà nước đảm bảo rằng các tòa án có thẩm quyền chính trị không thua kém các định chế khác. Trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao ở Hà Nội. Ảnh Báo Công Lý Đến đây chúng ta trở lại với với một thuật ngữ hết sức quen thuộc tam quyền phân lập. Chỉ trong mô hình chính trị mà tòa án có năng lực kiểm tra, giám sát các hoạt động của những nhánh quyền lực còn lại như hành pháp và lập pháp, chúng ta mới có thể đặt kỳ vọng vào nền tảng lý luận cho việc giải thích pháp luật, vận dụng sáng tạo nguyên tắc pháp luật cũng như sự tự tin trong sáng tạo nguyên tắc pháp lý của các thẩm phán. Với mô hình nhà nước tập trung dân chủ cực kỳ thuần túy tại Việt Nam và sự lệ thuộc gần như hoàn toàn của nhánh tư pháp vào Quốc hội, sự lấn át quyền lực gần như tuyệt đối của cơ quan hành pháp Chính phủ, ngay cả khi chúng ta mong muốn, án lệ chắc chắn cũng không thể tồn tại trong môi trường chính trị này. *** Những phân tích nói trên không nhằm phê phán cách thức án lệ mà Việt Nam đang phát triển. Như quy định tại Nghị quyết 03 về những yêu cầu của một bản án có thể được xem là án lệ, án lệ là nhằm 1. … làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. Chúng ta có thể thấy cơ quan nhà nước Việt Nam chưa bao giờ muốn xây dựng án lệ như thứ án lệ mà thế giới biết đến chúng. Vậy nên nói thẳng Án lệ tại Việt Nam không phải án lệ lại là cách tốt nhất để phân biệt giữa án lệ tại Việt Nam và án lệ vẫn đang được hệ thống pháp luật thông luật áp dụng rộng rãi ngày nay. *** Từ khóa án lệ case law np tiền lệ precedent n / tiền lệ pháp legal precedent, jurisprudence npquyền lập pháp legislative power np; quyền làm luật law-making power np luật thành văn statutory law np độc lập tư pháp judicial independence np độc lập chính trị political independence np
Đây là nội dung nằm trong tiểu mục b, mục của phần 2 Án lệ trong hệ thống pháp luật Anh và Mỹ trong Chương I của đề tài SV NCKH năm 2007 Án lệ và Khả năng áp dụng Án lệ ở Việt Nam. Phần trước Lịch sử án lệ ở Mỹ Phần này do bạn cùng làm với tôi viết Án lệ có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh, Mỹ và là nguồn không thể thiếu trong pháp luật Anh, Mỹ. Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ có thể thấy việc áp dụng và giải thích án lệ ở Anh và Mỹ có những điểm tương đồng và khác biệt Điểm tương đồng – Ở cả hai nước án lệ đều là nguồn chủ yếu của pháp luật. – Án lệ được tạo ra từ các phán quyết của các thẩm phán toà án cấp trên. Điểm khác biệt Mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh nhưng án lệ của Anh và Mỹ cũng có những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản Có thể bạn quan tâm [Ebook] Tài liệu nghiên cứu Án lệ Anh Mỹ Sự hình thành án lệ – Được tạo ra từ các phán quyết của toà án cấp trên – Toà án bang. – Toà án liên bang. – Toà án tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vai trò – Pháp luật thành văn có vị trí cao hơn án lệ nhưng thẩm phán Anh thường cố gắng tìm cách để áp dụng án lệ nhằm hạn chế tối đa sự áp dụng luật thành văn. – Luật thành văn có vị trí cao nhất đặc biệt là hiến pháp Hoa Kỳ. Tất cả các văn bản luật và án lệ nếu trái với Hiến pháp để sẽ bị tuyên bố là vi hiến. Cách thức áp dụng – Án lệ ở Anh được các thẩm phán áp dụng một cách cứng nhắc. – Án lệ đươc các thẩm phán áp dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn. Nguyên tắc áp dụng – Rule of stare decicis tất cả các tòa án dều phải tuân theo án lệ trừ Ủy ban phúc thẩm Thượng nghị viện. – Rule of precedent tất cả các tòa án đều có quyền thay đổi án lệ. Sự ghi chép – Tại Anh các án lệ bắt buộc thường được ghi chép trong Law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports. – Tại Mỹ tập hợp các án lệ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp luật Restatement of the Law của một hiệp hội tư nhân có tên là Viện luật Hoa Kỳ American Law Institute. Nguyên nhân của sự khác nhau giữa án lệ của Anh và Mỹ Mặc dù hệ thống pháp luật Anh và Mỹ có sự phát triển tương tự nhau, đặc biệt trong một thời gian pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng, tiếp thu pháp luật Anh. Nhưng cần khẳng định rằng pháp luật Anh và Mỹ tồn tại một cách độc lập vì mỗi nước đều có chủ quyền riêng của mình và hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau làm cho án lệ Mỹ có những nét đặc thù cơ bản so với án lệ ở Anh, mà nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự khác nhau đó là Anh Mỹ Lãnh thổ – Anh là một đảo quốc ở Châu Âu, có lãnh thổ thống nhất trong cả nước với hệ thống pháp luật chung. – Mỹ là một lục địa rộng lớn giành được độc lập từ phát triển đấu tranh giải phóng thuộc địa. Lãnh thổ nước Mỹ được chia làm 50 bang, với 50 hệ thống pháp luật khác nhau. Lịch sử – Nước Anh có truyền thống bề dày lịch sử, là một đế chế hùng mạnh với diện tích thuộc địa rộng lớn trên khắp thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. – Mỹ trước kia là thuộc địa của Anh giành độc lập năm 1776 với thành phần gồm những người nhập cư với nhiều chủng tộc lập nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hình thức chính thể – Anh là một nước quân chủ nghị viện, vẫn phụ thuộc chế độ quân chủ có nữ hoàng và nhà vua nhưng chỉ là biểu tượng của nước Anh, còn quyền lực thực chất nằm trong tay nghị viện đứng đầu là Thủ tướng. – Mỹ là nước cộng hoà tổng thống với hai đảng Dân chủ và Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Chế độ chính trị – Anh là một quốc gia đơn nhất. – Mỹ là một quốc gia liên bang, mỗi bang đều có pháp luật riêng của mình nhưng chịu sự chi phối của toà án liên bang nên trong đó luôn có sự dung hoà về lợi ích giữa các bang. Điều kiện kinh tế xã hội – Anh đã từng đứng đầu thế giới về diện tích thuộc địa và là một quốc gia có tiềm lực về kinh tế. – Sau chiến tranh thế giới II Mỹ dần vươn lên và đứng đầu thế giới về cơ cấu nền kinh tế. Những nguyên nhân trên làm cho án lệ ở Anh và Mỹ có những nét riêng, đặc thù dẫn đến hệ quả về mặt pháp lý cách giải quyết vấn đề của người Mỹ rất khác so với người Anh. Pháp luật của Anh chủ yếu gây ảnh hưởng đối với pháp luật Mỹ ở những lĩnh vực tạm gọi la “luật tư” còn với những lĩnh vực khác như luật hình sự, tố tụng hình sự, thương mại… ảnh hưởng của pháp luật Anh đối với pháp luật Mỹ là khá lu mờ. Do đó một số luật gia Mỹ có thể dễ dàng tiếp cận pháp luật Anh cũng như một số án lệ Anh vẫn được dẫn chiếu để giải quyết một số vụ việc ở Mỹ. Ngược lại luật gia Anh sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận pháp luật Mỹ.10 Chú thích 10Xem Tập bài giảng luật so sánh, đd, tr. 8; Nguyễn Linh Giang, đd, tr. 7; Nguyễn Đức Mai, đd, tr 8; Lưu Tiến Dũng, Vai trò của án lệ ở các nước theo hệ thống pháp luật án lệ Common Law và các nước theo hệ thống dân luật Civil Law, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 1, 2006. Phần tiếp theo Nguyên tắc chung áp dụng án lệ
án lệ hoa kỳ